Leyte (tỉnh)
Leyte | |
---|---|
— Tỉnh — | |
Vị trí Leyte tại Philippines | |
Tọa độ: 10°59′B 124°54′Đ / 10,983°B 124,9°Đ | |
Quốc gia | Philippines |
Vùng | Đông Visayas (Vùng VIII) |
Thành lập | 11/05/1992 |
Thủ phủ | Thành phố Tacloban |
Chính quyền | |
• Kiểu | Tỉnh của Philippines |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 5,901,5 km2 (2,278,6 mi2) |
Thứ hạng diện tích | Thứ 13 |
Dân số (2007) | |
• Tổng cộng | 1,544,251 |
• Thứ hạng | Thứ 13 |
• Thứ hạng mật độ | Thứ 24 |
Hành chính | |
• Independent cities | 2 |
• Component cities | 1 |
• Municipalities | 41 |
• Barangay | 1.641 |
• Districts | Lone district of Biliran |
Múi giờ | PHT (UTC+8) |
ZIP Code | 6500–6542 |
Mã điện thoại | 53 |
Mã ISO 3166 | PH-LEY |
Ngôn ngữ | Tiếng Waray-Waray, Tiếng Cebuano |
Tỉnh Leyte (còn gọi là Tỉnh Bắc Leyte; tiếng Filipino: Hilagang Leyte) là một tỉnh của Philippines ở vùng Đông Visayas. Thủ phủ là Thành phố Tacloban. Tỉnh chiếm 3/4 diện tích của đảo Leyte. Tỉnh ở phía tây của Samar, phía bắc của tỉnh Nam Leyte và phía nam của Biliran. Phía tây của Leyte đối mặt với tỉnh Cebu qua biển Camotes.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Nhà thám hiểm Ruy López de Villalobos đến hòn đảo lần đầu tiên năm 1543 và đã đặt tên cho đảo là Las Islas Felipinas. Trận chiến vịnh Leyte diễn ra khu vực biển xung quanh đảo này từ 23/10 đến 26/10 năm 1944. Đây là trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử hiện đại khi ít nhất 212 tàu của lực lượng Đồng Minh đụng độ với tàn quân của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, ước chừng 60 tàu, trong đó có cả siêu chiến hạm Yamato và Musashi. Thắng lợi của Đồng Minh khi chiếm được hòn đảo đã trở thành yếu tố quyết định cho chiến thắng của các lực lượng Philippines và Hoa Kỳ.
Nhân khẩu
[sửa | sửa mã nguồn]Dân cư ở Leyte chia làm 2 nhóm chính, chủ yếu bởi yếu tố ngôn ngữ. Ở phía tây và phía nam là người Cebuanos trong khi ở phía bắc và phía đông là người Waray-Waray.
Người Cebuanos có liên hệ với Cebu, tỉnh đông dân nhất ở Visayas. Người Waray có mối liên hệ nhiều hơn với Leyte và Samar
Theo điều tra năm 2000, 97% dân cư theo Công giáo La Mã, một trong những tỷ lệ cao nhất ở Visayas, trong khi 3% còn lại là tín đồ của các giáo phái Cơ đốc khác.
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn]Nền kinh tế của Leyte phu thuộc vào nông nghiệp. Lúa gạo được trồng ở các vùng đồng bằng thấp đặc biệt là xung quanh Tacoban, trong khi các nông trại trồng dừa để phục vụ cho sản xuất dầu dừa chủ yếu nằm ở các vùng đồi núi. Ngư nghiệp cũng là một nguồn thu nhập chính của người dân.
Tỉnh là nơi có nhà máy địa nhiệt lớn nhất châu Á, khiến cho đây trở thành một trong những tỉnh giàu tài nguyên nhất Philippines.
Hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]Leyte được chia ra thành 40 đô thị tự trị và 3 thành phố, 2 trong số đó là các thành phố hành chính độc lập.
Thành phố đô thị hoá cao
[sửa | sửa mã nguồn]Thành phố hợp thành độc lập
[sửa | sửa mã nguồn]Thành phố hợp thành
[sửa | sửa mã nguồn]Đô thị tự trị
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Website chính thức tỉnh Leyte Lưu trữ 2012-12-05 tại Archive.today