Bước tới nội dung

RIM-161 Standard Missile 3

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
RIM-161 SM-3
Tên lửa RIM-161 Standard Missile (SM-3) được phóng từ tàu khu trục Aegis USS Lake Erie
LoạiTên lửa phòng không diệt mục tiêu bằng động năng
Nơi chế tạoMỹ, Nhật (Block IIA)
Lược sử hoạt động
Phục vụ2014–present (Block IB)[1]
Sử dụng bởiHải quân Mỹ
Lực Lượng Phòng Vệ Biển Nhật Bản
Hải quân Hàn Quốc
Lược sử chế tạo
Nhà sản xuấtRaytheon, Aerojet, (Mitsubishi Heavy Industries Block IIA)
Giá thànhTừ 9 đến 25 triệu Đô la[2] (2011)
Thông số
Khối lượng1.5 t
Chiều dài6.55 m (21 ft 6 in)
Đường kính34.3 cm (13.5 in) for Block I missiles
53.3 cm (21 in) for Block II
Đầu nổLightweight Exo-Atmospheric Projectile (LEAP) kinetic warhead

Sải cánh1.57 m (62 in)
Chất nổ đẩy đạnTầng 1: Động cơ đẩy khởi tốc nhiên liệu rắn MK 72 của Aerojet
Tầng 2 sử dụng động cơ MK 104 xung lực đẩy kép nhiên liệu rắn của Aerojet
Tầng 3 sử dụng động cơ nhiên liệu rắn MK 136, ATK
Tầng đẩy 4 sử dụng: Throttleable Divert and Attitude Control System (TDACS), Aerojet
Tầm hoạt độngBlock IA/B: 900 – 1200 km (560 miles)
Block IIA: 1,200 km range and flight ceiling 900 – 1,050 km (depending on the type of target)[4][N 1]
Tốc độ3 km/s (Mach 8.8) Block IA/B
4.5 km/s (Mach 13.2) Block IIA[4]
Hệ thống chỉ đạoGPS/INS/semi-active radar homing/passive LWIR infrared homing seeker (KW)

RIM-161 Standard Missile 3 (SM-3) là một loại tên lửa phòng không hạm tàu của Hải quân Mỹ chuyên đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung và là một phần của Hệ thống phòng thủ chống tên lửa đạn đạo Aegis.[5] Mặc dù được thiết kế để chống tên lửa đạn đạo, nhưng SM-3 cũng có khả năng chống vệ tinh khi nó có thể bắn hạ vệ tinh ở Quỹ đạo Trái Đất tầm thấp.[6] Tên lửa SM-3 được sử dụng chủ yếu bởi Hải quân Mỹ và Lực lượng phòng vệ hàng hải của Nhật Bản.

Motivation and development

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên lửa phòng không SM-3 được phát triển dựa trên thiết kế của SM-2 Block IV. Cụ thể, tên lửa SM-3 sử dụng cùng Tầng đẩy tăng cường nhiên liệu rắn và động cơ lực đẩy kép như tầng đẩy một và hai của tên lửa Block IV và có cùng bộ phận lái tên lửa và hệ thống dẫn đường pha giữa khi tên lửa bay trong bầu khí quyển. Đối với trường hợp đánh chặn tầm xa, tên lửa sẽ bay ngoài tầng khí quyển, sẽ được bổ sung lực đẩy từ tầng đẩy thứ ba, bao gồm một động cơ xung kép.[7]

Các công việc phát triển ban đầu để chuyển đổi SM-3 sang phóng từ bệ phóng mặt đất ("Aegis ashore") đã được thực hiện để dành riêng cho quân đội Israel, nhưng sau đó Israel đã chọn hệ thống Arrow 3 nội địa. Chính quyền Tổng thống Obama cũng hi vọng Hệ thống phòng thủ tên lửa Châu Âu (European Phased Adaptive Approach (EPAA)) sẽ lựa chọn tên lửa SM-3 do hệ thống THAAD cùng cạnh tranh với nó có tầm bắn ngắn hơn và cần triển khai nhiều căn cứ hơn để phòng thủ không phận châu Âu. Tuy nhiên khi so sánh với Ground-Based Interceptor, tên lửa SM-3 Block I chỉ có tầm bắn từ 15 đến 16 tầm bắn của hệ thống này. Do đó Hải quân Mỹ đã tiếp tục nâng cấp lên phiên bản SM-3 Block II có chiều rộng thân tên lửa tăng 0,34 m (13,5 in) lên 0,53 m (21 in), giúp nó có khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm trung-xa.[8]

Phiên bản Block IIA chỉ sử dụng lại động cơ đẩy của tầng một tên lửa Block I. Trong khi Block IIA được thiết kế để Nhật Bản có thể phòng thủ trước đòn tấn công từ tên lửa đạn đạo của Triều Tiên mà còn là thành phần chính của giai đoạn 3 triển khai EPAA tại Châu Âu. Block IIA được liên doanh sản xuất bởi RaytheonMitsubishi Heavy Industries. Khoản kinh phí đầu tư cho phát triển Block IIA của Mỹ là 1,51 tỉ đô la.[9]

Sự phát triển của tên lửa SM-3

Vũ khí chống vệ tinh

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên lửa SM-3 được phóng đi để phá hủy vệ tinh USA-193 đã ngừng hoạt động

Ngày 14 tháng Hai năm 2008, quân đội Mỹ thông báo đã sử dụng một tên lửa SM-3 đã được nâng cấp để bắn đi từ ba tàu khu trục trên Biển Bắc Thái Bình Dương và phá hủy vệ tinh USA-193 đã ngừng hoạt động ở độ cao 240 kilomet ngay trước khi nó đi vào bầu khí quyển. Theo như các tuyên bố thì việc bắn hạ vệ tinh làm giảm nguy cơ đối với dân thường do vệ tinh giải phóng nhiên liệu hydrazine vẫn còn sót lại,[10][11] nhưng theo thông tin mật, mục đích chính của vụ phóng tên lửa là cho mục đích quốc phòng.[12] Theo một chuyên gia, phần mềm của SM-3 đã được điều chỉnh để tăng cường khả năng nhận diện mục tiêu là vệ tinh. Nguyên mẫu tên lửa SM-3 vốn không có khả năng chống lại vệ tinh.[cần dẫn nguồn]

Các nước trang bị

[sửa | sửa mã nguồn]

Các nước vẫn đang sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Các nước tiềm năng

[sửa | sửa mã nguồn]

Thư viện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
  • ArcLight, một chương trình phát triển tên lửa đối đất của DARPA dựa trên tầng khởi tốc của SM-3
  • Arrow 3
  • THAAD, hệ thống phòng thủ của Lục quân Mỹ
  • RIM-174 Standard ERAM, (SM-6)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Range and ceiling figures based on absolute 700s capability shown for Block IIA missile in Figure 4 at linked source—"Breaking Defense".[4] Intercept capability against an SS-19 Stiletto launched from Kaliningrad against New York is shown as approximately 1,200 km range and 900 km ceiling for a North Sea intercept. Range and ceiling against a hypothetical Iranian ICBM launched against the same target is shown as approximately 1,200 km and 1,050 km respectively in Figure 3 of the same source for an intercept coming from Redzikowo, Poland.
  1. ^ “Raytheon: SM-3 Interceptor”. Raytheon. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2019.
  2. ^ O'Rourke, Ronald (19 tháng 4 năm 2011). “Navy Aegis Ballistic Missile Defense (BMD) Program: Background and Issues for Congress” (PDF). Federation of American Scientists. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2011. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  3. ^ “United States Department of Defense Fiscal Year 2018 Budget Request – Program Acquisition Cost By Weapon System” (PDF). Office of the U.S. Under Secretary of Defense (Comptroller). tr. 1–7. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
  4. ^ a b c “Why Russia Keeps Moving the Football on European Missile Defense”. Breaking Defense. 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2013.
  5. ^ Raytheon Completes SM-3 Test Flight Against Intermediate Range Ballistic Missile Lưu trữ 2011-11-22 tại Wayback Machine, Raytheon Company, Retrieved 6 September 2011
  6. ^ Pentagon news briefing of February 14, 2008 (video, transcript): although no name for the satellite is given, the launch date of December 14, 2006 is stated
  7. ^ “RIM-161 SM-3 Upgrades”. 2008. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2009.
  8. ^ “SM-3 BMD, in from the Sea: EPAA & Aegis Ashore”. Defenseindustrydaily.com. 15 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2013.
  9. ^ Amy Butler, Aerospace Daily, Defence Report (7 tháng 8 năm 2012). “MDA Still Sees 2018 Deployment in Restructured SM-3 IIA Plan”. aviationweek.com. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2018.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  10. ^ Baldor, Lolita C. (15 tháng 2 năm 2008). “US to Try to Shoot Down Spy Satellite”. Washington Post. Associated Press.[liên kết hỏng]
  11. ^ “DefenseLink News Transcript: DoD News Briefing with Deputy National Security Advisor Jeffrey, Gen. Cartwright and NASA Administrator Griffin”. 2008. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2008.
  12. ^ “WikiLeaks: US and China in military standoff over space missiles”. The Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  13. ^ Jeong, Jeff (12 tháng 10 năm 2018). “South Korea to buy ship-based interceptors to counter ballistic missile threats”. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Naval combat systems Bản mẫu:Raytheon Bản mẫu:Standard family of missiles

Bản mẫu:Politics of outer space